Một số điểm mới về xây dựng, ban hành Nghị quyết Quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân
Ngày đăng: 09/04/2025 10:48
Hôm nay: 0
Hôm qua: 0
Trong tuần: 0
Tất cả: 0
Ngày đăng: 09/04/2025 10:48
Bài đọc:
Tại Kỳ họp Bất thường lần thứ Chín, Quốc hội khóa XV đã thông qua Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật (QPPL) năm 2025; Luật có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/4/2025, nhằm thể chế kịp thời các chủ trương, đường lối của Đảng về đổi mới mạnh mẽ tư duy xây dựng pháp luật, hoàn thiện quy trình xây dựng pháp luật, phát hiện và tháo gỡ nhanh nhất những “điểm nghẽn” có nguyên nhân từ các quy định của pháp luật. Luật gồm 09 chương và 72 điều (giảm 8 chương, 101 điều so với Luật Ban hành văn bản QPPL năm 2015 đã được sửa đổi, bổ sung năm 2020). Triển khai, cụ thể hóa nội dung của Luật, ngày 01/4/2025, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 78/2025/NĐ-CP quy định chi tiết một số điều và biện pháp để tổ chức, hướng dẫn thi hành Luật Ban hành văn bản QPPL; Nghị định số 79/2025/NĐ-CP về kiểm tra, rà soát, hệ thống hóa văn bản QPPL (các Nghị định này có hiệu lực kể từ ngày ký ban hành - cùng thời điểm Luật có hiệu lực).
Theo quy định của Luật và các Nghị định, liên quan đến việc xây dựng, ban hành nghị quyết QPPL của HĐND có một số nội dung mới, như sau:
1. Về việc ban hành Nghị quyết của HĐND cấp tỉnh: Ngoài các trường hợp ban hành nghị quyết để quy định các vấn đề như Luật năm 2015 quy định, tại khoản 1 Điều 21 Luật năm 2025 bổ sung trường hợp HĐND cấp tỉnh ban hành nghị quyết để “thực hiện thí điểm các chính sách theo quy định của Luật Tổ chức chính quyền địa phương”. Nội dung này, điểm e khoản 1 Điều 15 Luật Tổ chức chính quyền địa phương năm 2025 quy định: HĐND cấp tỉnh có quyền “quyết định áp dụng thí điểm các chính sách đặc thù, đặc biệt, chưa được quy định trong pháp luật để thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn sau khi đã báo cáo và được Thủ tướng Chính phủ cho phép”. Việc bổ sung trường hợp này, nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho phát triển kinh tế - xã hội của các địa phương, thực hiện phương châm “địa phương quyết, địa phương làm, địa phương chịu trách nhiệm”.
2. Về xây dựng, ban hành Nghị quyết theo trình tự, thủ tục rút gọn: Bên cạnh 05 trường hợp xây dựng, ban hành văn bản QPPL theo trình tự, thủ tục rút gọn như Luật năm 2015 quy định, Luật năm 2025 (Điều 50) đã bổ sung trường hợp “ban hành văn bản quy định chi tiết của văn bản QPPL được ban hành theo trình tự, thủ tục rút gọn và trong trường hợp đặc biệt” thì cũng thuộc trường hợp xây dựng, ban hành văn bản QPPL theo trình tự, thủ tục rút gọn.
3. Về thẩm quyền quyết định việc xây dựng, ban hành Nghị quyết theo trình tự, thủ tục rút gọn: Điều 37 Nghị định số 34/2016/NĐ-CP ngày 14/5/2016 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Ban hành văn bản QPPL (đã được sửa đổi, bổ sung tại Nghị định số 154/2020/NĐ-CP; Nghị định số 59/2024/NĐ-CP) quy định: Thường trực HĐND cấp tỉnh tự mình hoặc theo đề nghị của UBND cấp tỉnh quyết định áp dụng trình tự, thủ tục rút gọn trong việc xây dựng, ban hành nghị quyết của HĐND cấp tỉnh. Tuy nhiên, theo Luật năm 2025 (khoản 2 Điều 50), thì Thường trực HĐND không tự mình quyết định áp dụng trình tự, thủ tục rút gọn trong việc xây dựng, ban hành nghị quyết của HĐND cấp tỉnh; Thường trực HĐND quyết định việc áp dụng trình tự, thủ tục rút gọn trong xây dựng, ban hành nghị quyết của HĐND theo đề nghị của cơ quan trình.
4. Bổ sung quy định Nghị quyết của HĐND cấp tỉnh được quy định hiệu lực trở về trước: Theo Luật năm 2015, chỉ có văn bản QPPL của cơ quan trung ương mới được quy định hiệu lực trở về trước. Tuy nhiên, Luật năm 2025 đã mở rộng đối tượng này, theo đó, trong trường hợp thật cần thiết để bảo đảm lợi ích chung của xã hội, thực hiện các quyền, lợi ích của tổ chức, cá nhân được quy định trong luật, nghị quyết của Quốc hội thì nghị quyết của HĐND cấp tỉnh được quy định hiệu lực trở về trước.
5. Quy định Thường trực HĐND được hướng dẫn áp dụng Nghị quyết của HĐND cùng cấp: Hướng dẫn áp dụng pháp luật là nội dung mới quan trọng, giúp cho văn bản QPPL được thực hiện thuận lợi, hạn chế việc phải sửa đổi, bổ sung; theo đó, Điều 61 Luật năm 2025 quy định: Cơ quan, người có thẩm quyền ban hành văn bản QPPL xem xét, hướng dẫn áp dụng đối với văn bản QPPL do mình ban hành bằng văn bản hành chính, trên cơ sở đề nghị của cơ quan, kiến nghị của tổ chức, cá nhân. Trường hợp cần thiết, HĐND giao Thường trực HĐND cùng cấp ban hành văn bản hành chính để hướng dẫn áp dụng văn bản QPPL do mình ban hành.
6. Về đăng ký xây dựng Nghị quyết của HĐND cấp tỉnh: Theo quy định cũ, một trong những bước đầu tiên trong quy trình xây dựng, ban hành Nghị quyết của HĐND cấp tỉnh là đề nghị xây dựng nghị quyết gửi đến Thường trực HĐND cùng cấp (chủ thể có quyền đề nghị là UBND cấp tỉnh, các Ban của HĐND cấp tỉnh và Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cùng cấp). Thường trực HĐND xem xét đề nghị xây dựng nghị quyết; nếu chấp thuận thì phân công cơ quan, tổ chức trình dự thảo nghị quyết và quyết định thời hạn trình HĐND cấp tỉnh dự thảo nghị quyết... Tuy nhiên, Luật năm 2025 và Nghị định không quy định thủ tục đề nghị xây dựng nghị quyết, thay vào đó là thủ tục “đăng ký”, cụ thể: UBND, các Ban của HĐND cấp tỉnh căn cứ văn bản QPPL của cơ quan Nhà nước cấp trên, thực tế ở địa phương tự mình hoặc theo đề nghị của cơ quan, tổ chức, đại biểu HĐND, đăng ký xây dựng nghị quyết của HĐND gửi đến Thường trực HĐND.
7. Về việc thẩm tra dự thảo Nghị quyết
- Về việc gửi hồ sơ dự thảo Nghị quyết để thẩm tra: Luật năm 2025 quy định rõ: hồ sơ dự thảo văn bản gửi thẩm tra được gửi bằng bản điện tử và 01 bản giấy (trước đây quy định một số loại tài liệu gửi bằng bản giấy, một số loại tài liệu gửi bằng bản điện tử).
- Về các tài liệu trong hồ sơ dự thảo gửi thẩm tra, cơ bản gồm các loại tài liệu như quy định trước đây; có bổ sung thêm tài liệu sau: Bản so sánh, thuyết minh nội dung dự thảo; Bản đánh giá thủ tục hành chính, việc phân cấp, thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn được phân cấp (nếu có); Ý kiến của UBND đối với dự thảo không do UBND trình. Nghị định cũng bổ sung, hướng dẫn rõ: tờ trình được ký và đóng dấu cơ quan trình, dự thảo văn bản được đóng dấu giáp lai cơ quan trình; các báo cáo được ký và đóng dấu của cơ quan chủ trì soạn thảo, các tài liệu khác được đóng dấu treo của cơ quan chủ trì soạn thảo.
- Về nội dung thẩm tra: Ngoài các vấn đề cần tập trung thẩm tra như quy định trước đây, Luật năm 2025 và Nghị định đặt ra nhiều vấn đề cần phải thẩm tra, gồm: Phạm vi điều chỉnh, đối tượng áp dụng của văn bản; Sự cần thiết, tính hợp lý của thủ tục hành chính (nếu có); Nguồn tài chính, nguồn nhân lực; việc phân cấp, thực hiện nhiệm vụ được phân cấp (nếu có); Ngôn ngữ, thể thức, kỹ thuật trình bày và trình tự, thủ tục soạn thảo văn bản.
- Thời gian gửi báo cáo thẩm tra: Báo cáo thẩm tra phải được gửi đến Thường trực HĐND chậm nhất là 05 ngày làm việc trước ngày khai mạc kỳ họp HĐND, đồng thời gửi đến cơ quan trình nghị quyết (trước đây, quy định là 10 ngày trước ngày khai mạc và không quy định gửi báo cáo thẩm tra đến cơ quan trình nghị quyết).
- Về trách nhiệm nghiên cứu, tiếp thu để chỉnh lý dự thảo: Theo quy định trước đây, Thường trực HĐND chỉ đạo Ban của HĐND được phân công thẩm tra chủ trì, phối hợp cơ quan, tổ chức trình, Sở Tư pháp giải trình, tiếp thu, chỉnh lý dự thảo nghị quyết. Tuy nhiên, Luật hiện hành đã điều chỉnh cơ bản nội dung này, theo đó, cơ quan trình có trách nhiệm nghiên cứu, tiếp thu để chỉnh lý dự thảo. Cơ quan trình báo cáo HĐND về dự thảo đã được chỉnh lý. Cơ quan chủ trì thẩm tra báo cáo HĐND ý kiến về dự thảo đã được chỉnh lý.
Có thể thấy rằng, mặc dù quy mô, số lượng điều của Luật năm 2025 giảm nhiều, nhưng Luật đã thể chế hóa chủ trương của Bộ Chính trị là “đổi mới cơ chế thi hành pháp luật, gắn kết chặt chẽ giữa xây dựng pháp luật với thực hiện pháp luật, bảo đảm pháp luật được thực hiện công bằng, nghiêm minh, nhất quán, kịp thời, hiệu lực, hiệu quả”. Nội dung của Luật đã đổi mới mạnh mẽ quy trình xây dựng pháp luật, kịp thời đáp ứng yêu cầu của thực tiễn phát triển đất nước trong Kỷ nguyên mới./.
(P.H)