Trao đổi một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của Hội đồng nhân dân
Ngày đăng: 23/12/2022 21:55
Hôm nay: 0
Hôm qua: 0
Trong tuần: 0
Tất cả: 0
Ngày đăng: 23/12/2022 21:55
Thời gian qua, hoạt động của Hội đồng nhân dân (HĐND) nói chung, hoạt động của HĐND các cấp tỉnh Đắk Lắk nói riêng, đã có nhiều đổi mới, thực hiện đúng quy định của pháp luật, phù hợp với thực tiễn của địa phương, góp phần thực hiện thắng lợi các chỉ tiêu, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, đảm bảo quốc phòng, an ninh trên địa bàn tỉnh. Tuy nhiên, để tiếp tục cụ thể hóa chủ trương, nghị quyết của Đảng; chính sách, pháp luật của Nhà nước, phát huy thế mạnh của từng địa phương, khu vực nhằm đáp ứng yêu cầu phát triển của xã hội; khắc phục những hạn chế, bất cập, tăng cường quản lý, điều hành hiệu lực, hiệu quả của các cấp chính quyền, thì việc nghiên cứu, đề xuất các giải pháp tiếp tục nâng cao chất lượng hoạt động của HĐND nói chung, nhất là hoạt động của Thường trực HĐND, Ban của HĐND, Tổ đại biểu và đại biểu HĐND nói riêng là hết sức cần thiết. Với ý nghĩa đó, bài viết xin giới thiệu khái quát về thực tiễn tổ chức của Thường trực HĐND, các Ban của HĐND, Tổ đại biểu và đại biểu HĐND tỉnh Đắk Lắk; những hạn chế, bất cập trong hoạt động của HĐND và nguyên nhân, từ đó đưa ra một số giải pháp để tham khảo, có thể áp dụng trong công tác tham mưu đối với hoạt động của cơ quan dân cử nói chung và HĐND các cấp nói riêng:
a) Cơ cấu tổ chức HĐND tỉnh Đắk Lắk khóa X, nhiệm kỳ 2021 - 2026; HĐND cấp huyện, cấp xã.
Nhiệm kỳ 2021 - 2026, HĐND tỉnh Đắk Lắk có 75 đại biểu, hiện tại còn 74 đại biểu (01 đại biểu chuyển công tác về cơ quan Trung ương), được chia thành 15 tổ đại biểu theo đơn vị hành chính cấp huyện, mỗi Tổ có Tổ trưởng và 01 Tổ phó, các thành viên của Tổ là đại biểu trúng cử tại địa bàn cấp huyện do Thường trực HĐND tỉnh quyết định. Về cơ cấu đại biểu: 19 đại biểu nữ (chiếm tỷ lệ 25,33%); 24 đại biểu là người dân tộc thiểu số (chiếm tỷ lệ 32%); 05 đại biểu trẻ tuổi (chiếm tỷ lệ 6,67%); 03 đại biểu ngoài đảng (chiếm tỷ lệ 4%); 03 đại biểu có tôn giáo (chiếm tỷ lệ 4%); 31 đại biểu tái cử (chiếm tỷ lệ 41,33%).
Thường trực HĐND cấp tỉnh gồm có Chủ tịch HĐND, 01 Phó Chủ tịch HĐND tỉnh (là đại biểu HĐND hoạt động chuyên trách), các Ủy viên Thường trực là Trưởng ban của HĐND tỉnh. Thường trực HĐND tỉnh là cơ quan thường trực của HĐND tỉnh, thực hiện nhiệm vụ và quyền hạn theo quy định của Luật Chính quyền địa phương năm 2015; Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Tổ chức Chính phủ và Luật Tổ chức Chính quyền địa phương năm 2019 và các quy định khác của pháp luật có liên quan; chịu trách nhiệm và báo cáo hoạt động trước HĐND tỉnh.
Thành lập 4 Ban, gồm: Ban Kinh tế - ngân sách, Ban Pháp chế, Ban Văn hóa - xã hội và Ban Dân tộc. Mỗi Ban gồm có Trưởng ban và 01 Phó trưởng Ban đều là đại biểu HĐND hoạt động chuyên trách và 05 Ủy viên, riêng Ban Kinh tế - Ngân sách có 7 Ủy viên. Ban của HĐND là cơ quan của HĐND tỉnh, có nhiệm vụ thẩm tra dự thảo nghị quyết, báo cáo, đề án trước khi trình HĐND tỉnh, giám sát, khảo sát, kiến nghị về những vấn đề thuộc lĩnh vực Ban phụ trách; chịu trách nhiệm và báo cáo công tác trước HĐND, Thường trực HĐND.
HĐND cấp huyện có 513 đại biểu HĐND; các huyện tổ chức 03 Ban, gồm: Ban Kinh tế - Xã hội, Ban Pháp chế và Ban Dân tộc; riêng HĐND thành phố Buôn Ma Thuột thành lập 02 Ban (Ban Kinh tế - Xã hội, Ban Pháp chế). Mỗi Ban có từ 05 - 07 Ủy viên. Căn cứ tình hình thực tiễn tại địa phương, HĐND các huyện, thành phố, thị xã thành lập các Tổ đại biểu HĐND đảm bảo phù hợp, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ. HĐND cấp xã có 4.634 đại biểu/184 xã, phường, thị trấn.
Toàn cảnh kỳ họp HĐND tỉnh Đắk Lắk khóa X, nhiệm kỳ 2021 - 2026, không sử dụng tài liệu giấy (ứng dụng phần mềm “họp không giấy”)
b) Hạn chế, bất cập và giải pháp nâng cao chất lượng hoạt động của HĐND
* Những hạn chế, bất cập:
Trong những năm qua, bên cạnh những kết quả đạt được, tổ chức và hoạt động của HĐND các cấp còn bộc lộ một số hạn chế, bất cập thể hiện qua một số nội dung đề cập sau đây:
-Về thực hiện chức năng quyết định của HĐND: Một số nghị quyết ban hành tính phù hợp với thực tiễn chưa cao, tổ chức thực hiện phát sinh bất cập, nhất là những nghị quyết cần nguồn lực thực hiện lớn; liên quan đến cải cách bộ máy, hệ thống chính trị ở cơ sở. Việc tổ chức giám sát các nghị quyết do HĐND tỉnh ban hành chưa được chú trọng đúng mức; một số nội dung của nghị quyết được ban hành khi tổ chức thực hiện chưa đảm bảo hiệu quả, còn bất cập. Việc soạn thảo nghị quyết, hồ sơ liên quan trình HĐND còn chậm, chưa đảm bảo thời gian theo luật định, làm ảnh hưởng đến chất lượng thẩm tra của các ban HĐND cũng như chất lượng nghiên cứu, xem xét để quyết định thông qua nghị quyết của đại biểu HĐND tại kỳ họp.
-Về hoạt động giám sát: Biện pháp, hình thức giám sát chưa đa dạng; chưa coi trọng đúng mức công tác khảo sát thực tế; có nội dung giám sát còn dàn trải, chung chung, chưa đi vào những vấn đề nổi cộm, bức xúc mà dư luận xã hội, Nhân dân và cử tri quan tâm. Việc xử lý, kiểm tra, đôn đốc kết quả giải quyết kiến nghị sau giám sát đối với cơ quan chịu sự giám sát chưa chặt chẽ, kịp thời nên có kiến nghị chưa đảm bảo tính hiệu lực, hiệu quả. Hoạt động chất vấn giữa hai kỳ họp chưa được thực hiện theo quy định của pháp luật. Hoạt động chất vấn tại kỳ họp có lúc còn mang tính hình thức, đại biểu HĐND còn thụ động, chưa nêu cao vai trò của người đại biểu dân cử. Hoạt động chất vấn của đại biểu HĐND tại kỳ họp còn hạn chế, ít đại biểu đặt vấn đề nội dung chất vấn trực tiếp tại kỳ họp; khi thực hiện chất vấn, có nơi, có vấn đề cũng chưa tranh luận để giải quyết rốt ráo, dứt điểm đến cùng. Việc theo dõi, đôn đốc thực hiện các ý kiến, kiến nghị của cử tri, những nội dung cam kết sau trả lời chất vấn có nơi, có việc chưa tập trung nên hiệu quả chưa cao, chưa kịp thời, đầy đủ.
-Về thực hiện chức năng đại diện: một số vấn đề kiến nghị của cử tri được trả lời còn mang tính chất chung chung, giải thích, chưa thuyết phục, chưa đáp ứng được yêu cầu, nguyện vọng chính đáng của người dân và cử tri; việc tổ chức tiếp xúc cử tri theo chuyên đề chưa thực hiện được nhiều; thành phần tham dự các buổi tiếp xúc cử tri chưa rộng rãi, chủ yếu là đại diện chính quyền, đoàn thể cấp xã, thôn, buôn, tổ dân phố, cán bộ hưu trí, người có đơn khiếu nại; quan hệ phối hợp giữa đại biểu với cử tri ngoài các buổi tiếp xúc tại trụ sở xã, phường, thị trấn để tiếp thu, nắm bắt tình hình, đôn đốc giám sát giải quyết vấn đề cử tri nêu có nơi, có lúc chưa được thường xuyên. Hoạt động tiếp xúc cử tri, tiếp công dân, đôn đốc xử lý đơn thư khiếu nại, tố cáo của công dân có lúc, có việc còn lúng túng, chưa thực hiện đúng với yêu cầu, nhiệm vụ; có vấn đề cử tri thường xuyên kiến nghị chưa được giải quyết dứt điểm. Phối hợp giữa các cơ quan trong xử lý đơn thư khiếu nại, tố cáo có lúc chưa chặt chẽ, chưa có phần mềm theo dõi kết quả xử lý đơn thư, giải quyết khiếu nại, tố cáo, tiếp công dân kết nối từ Trung ương đến địa phương dẫn đến thực trạng cùng một đơn nhưng nhiều cơ quan chức năng từ Trung ương đến địa phương chuyển đến UBND các cấp đề nghị giải quyết. Đáng lưu ý là có những vụ việc đã được giải quyết dứt điểm, trả lời nhiều lần nhưng vì chưa nắm bắt đầy đủ thông tin về kết quả giải quyết vụ việc, các cơ quan vẫn chuyển đơn, gây tâm lý trông chờ giải quyết tiếp, giải quyết lại của người dân. Điều này làm mất nhiều thời gian, công sức của các cơ quan có chức năng giải quyết.
-Về hoạt động của Thường trực HĐND, các Ban của HĐND: Sự điều hòa, phối hợp của Thường trực HĐND ở một số khâu còn bị động, thiếu cụ thể, nhất là trong phân công và điều hòa phối hợp hoạt động của các Ban của HĐND. Trong một số nội dung công tác, các Ban của HĐND còn chưa thật sự chủ động; chất lượng thẩm tra, giám sát một số lĩnh vực, ngành còn hạn chế; còn trường hợp thành viên của Ban hoạt động chưa thường xuyên, tích cực. Việc phối hợp giữa các Đoàn giám sát của Thường trực HĐND, các Ban của HĐND để thực hiện nhiệm vụ giám sát trên địa bàn có lúc chưa chặt chẽ, đôi khi còn trùng lắp về nội dung, đơn vị chịu sự giám sát, địa bàn giám sát.
Cuốn sách giới thiệu bối cảnh ra đời, quan điểm chỉ đạo, giá trị cốt lõi của Hiên pháp năm 2013 và toàn văn Bản hiến pháp năm 2013
- Về hoạt động của tổ đại biểu và đại biểu HĐND: Nội dung, quy định về hoạt động của tổ đại biểu HĐND chưa thật khả thi, nhất là quy định về tổ chức giám sát; các tổ đại biểu chưa tổ chức sinh hoạt (họp tổ) theo quy định. Có đại biểu HĐND chưa dành thời gian theo quy định (Đại biểu HĐND hoạt động không chuyên trách phải dành ít nhất một phần ba thời gian làm việc trong năm để thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của đại biểu HĐND) để thực hiện nhiệm vụ của người đại biểu HĐND nhưng chưa có quy định biện pháp, chế tài xử lý, ít tham gia thảo luận và chất vấn tại kỳ họp; chưa liên hệ chặt chẽ với cử tri để nắm vững tình hình, tâm tư, nguyện vọng của Nhân dân nơi đại biểu ứng cử. Việc tổng hợp ý kiến cử tri có lúc chưa đầy đủ, cụ thể; có trường hợp chưa phân định được thẩm quyền giải quyết của từng cấp để tổng hợp, chuyển đúng cơ quan có thẩm quyền giải quyết. Việc đôn đốc và tổng hợp giải quyết kiến nghị của cử tri đối với các cơ quan chức năng chưa kịp thời, thường xuyên. Pháp luật không quy định cụ thể các mối quan hệ phối hợp, nội dung phối hợp, các quy định về cơ chế phối hợp, không có chế tài mang tính ràng buộc nên giảm hiệu lực thi hành. Hầu hết các đại biểu HĐND hoạt động không chuyên trách, phải giải quyết nhiều công việc chuyên môn, đặc biệt là đại biểu HĐND không chuyên trách giữ chức vụ lãnh đạo, quản lý, nên công tác phối hợp trong nội bộ HĐND đôi lúc vẫn chưa chặt chẽ, thường xuyên.
- Về các điều kiện bảo đảm hoạt động của đại biểu HĐND: tại mỗi kỳ họp, khối lượng báo cáo, tờ trình, dự thảo nghị quyết là rất lớn. Việc tra cứu, theo dõi báo cáo, tài liệu trình tại kỳ họp của đại biểu HĐND gặp nhiều khó khăn. Thời gian gửi tài liệu cho đại biểu nghiên cứu, tiếp cận thường chậm so với luật định.
Tài liệu bồi dưỡng đại biểu HĐND cấp tỉnh do Bộ Nội vụ biên soạn
* Một số giải pháp cần quan tâm
Giải pháp chung: (1) Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với hoạt động của Hội đồng nhân dân: Thực hiện nguyên tắc, Đảng thống nhất lãnh đạo công tác tổ chức cán bộ và quản lý đội ngũ cán bộ lãnh đạo quản lý trong hệ thống chính trị; trong đó, cần đảm bảo lãnh đạo của Ban Thường vụ cấp ủy cùng cấp đối với tổ chức, hoạt động của HĐND. Đảng đoàn HĐND cấp tỉnh chủ động tham mưu cho Ban Thường vụ Tỉnh ủy, Thành ủy tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo đảm bảo tổ chức, hoạt động của HĐND đúng chủ trương, định hướng của Đảng và quy định của pháp luật. Cụ thể: Thường trực HĐND các cấp tham mưu cho cấp ủy cùng cấp ban hành nghị quyết về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với hoạt động của HĐND. (2) Ban hành các quy chế, nội quy liên quan theo thẩm quyền: Trên cơ sở Luật tổ chức chính quyền địa phương, Luật hoạt động giám sát của Quốc hội và HĐND, Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật, các văn bản quy phạm pháp luật hướng dẫn về cơ cấu tổ chức và hoạt động của HĐND; chủ động tổ chức rà soát theo thẩm quyền, ban hành các quy chế, nội quy liên quan đến hoạt động của HĐND, bảo đảm tất cả các hoạt động đều được thực hiện theo quy định, quy chế. (3) Tăng cường mối quan hệ, phối hợp giữa Hội đồng nhân dân với các cơ quan, đơn vị: Tăng cường mối quan hệ, phối hợp giữa HĐND với UBND, UBMTTQVN tỉnh, Đoàn Đại biểu Quốc hội tỉnh và các cơ quan, tổ chức hữu quan. Kiểm tra, rà soát, xây dựng, sửa đổi, bổ sung hoặc ban hành mới các Quy chế phối hợp hoạt động cho phù hợp với thực tiễn và quy định của pháp luật trên cơ sở chức năng, nhiệm vụ của mỗi cơ quan. (4) Tăng cường, nâng cao chất lượng Hội nghị trao đổi kinh nghiệm hoạt động: Tăng cường và nâng cao chất lượng Hội nghị giao ban trao đổi kinh nghiệm hoạt động của Thường trực HĐND các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương trong khu vực; nâng cao chất lượng các Hội nghị giao ban, trao đổi kinh nghiệm giữa Thường trực HĐND tỉnh với Thường trực HĐND cấp huyện. Quan tâm đúng mức, khuyến khích tổ chức Hội nghị giao ban, trao đổi kinh nghiệm giữa Thường trực HĐND cấp huyện với Thường trực HĐND cấp xã. (5) Tăng cường công tác tuyên truyền, tập huấn và nhất là công tác quy hoạch, đạo tạo, lựa chọn và giới thiệu ứng cử làm đại biểu HĐND: Chất lượng, hiệu quả hoạt động của HĐND chịu sự tác động, ảnh hưởng lớn bởi chất lượng hoạt động của Thường trực, các Ban, Tổ đại biểu HĐND và đại biểu HĐND. Do đó, để HĐND thực sự là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương, đại diện cho ý chí, nguyện vọng và quyền làm chủ của Nhân dân, phải bắt đầu từ việc quy hoạch, đào tạo, dự nguồn cán bộ giới thiệu ứng cử đại biểu HĐND, nhằm nâng cao vai trò, trách nhiệm, năng lực hoạt động và bản lĩnh chính trị của từng đại biểu HĐND. (6) Đảm bảo các điều kiện phục vụ hoạt động của Hội đồng nhân dân: Quan tâm tăng cường số lượng, chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức của bộ máy Văn phòng giúp việc HĐND. Chú trọng công tác đào tạo, bồi dưỡng nhằm nâng cao trình độ, năng lực cho cán bộ, công chức Văn phòng; đảm bảo các điều kiện phương tiện, kinh phí để thực hiện tốt chức năng tham mưu, phục vụ, giúp việc cho hoạt động của HĐND, Thường trực HĐND và các cơ quan của HĐND.
- Giải pháp cụ thể: (1) Đối với Thường trực HĐND: Thực hiện tốt vai trò chỉ đạo, điều hòa, phối hợp hoạt động giữa các cơ quan của HĐND, đảm bảo sự đồng bộ, thống nhất. Tổ chức các phiên họp của Thường trực HĐND chất lượng, hiệu quả, giải quyết kịp thời các nhiệm vụ cụ thể, các vấn đề phát sinh giữa hai kỳ họp của HĐND thuộc thẩm quyền. Tăng cường đôn đốc UBND cùng cấp và các cơ quan hữu quan ở địa phương thực hiện nghị quyết của HĐND khi có hiệu lực thi hành và báo cáo theo quy định. Giám sát, theo dõi các chức danh do HĐND bầu, phê chuẩn trong thực hiện chức năng, nhiệm vụ theo quy định của pháp luật, làm cơ sở phục vụ chất vấn và trình HĐND lấy phiếu tín nhiệm, bỏ phiếu tín nhiệm, đánh giá thực hiện nhiệm vụ hàng năm. Thường xuyên giữ mối liên hệ với UBND, các cơ quan hữu quan, Ban Thường trực Ủy Ban MTTQ Việt Nam, các thành viên của Mặt trận cùng cấp. (2) Đối với các Ban của HĐND: tích cực, chủ động tham gia chuẩn bị các nội dung cho kỳ họp HĐND, nâng cao chất lượng thẩm tra các báo cáo, đề án, dự thảo nghị quyết trình HĐND. Việc thẩm tra các vấn đề phát sinh giữa 2 kỳ họp được thực hiện kịp thời, đúng quy định; tăng cường đôn đốc việc giải quyết kiến nghị của cử tri, đơn thư khiếu nại, tố cáo của công dân, tổ chức gửi đến. Tích cực tham gia các hoạt động giám sát của HĐND, Thường trực HĐND, kết quả giải quyết kiến nghị của cử tri, cũng như chủ động triển khai giám sát về lĩnh vực thuộc trách nhiệm của Ban. Tăng cường công tác khảo sát tình hình thực hiện các quy định của pháp luật về lĩnh vực phụ trách do Hội đồng nhân dân hoặc Thường trực HĐND tỉnh phân công. Phát huy vai trò Ủy viên của Ban trong việc nghiên cứu tài liệu, đề xuất, tham gia và có chính kiến về những quyết định, giám sát của HĐND, Thường trực HĐND, nhiệm vụ của Ban. (3) Đối với Tổ đại biểu HĐND: Nâng cao trách nhiệm của Tổ trưởng, Tổ phó Tổ đại biểu trong tổ chức, duy trì các hoạt động của Tổ; xây dựng chương trình công tác, giám sát, kế hoạch phân công đại biểu tiếp công dân; thực hiện tốt việc tổng hợp kiến nghị của cử tri, tích cực tham gia thảo luận tại kỳ họp HĐND tỉnh; đánh giá, xếp loại hoạt động của Tổ và đại biểu trong Tổ, động viên khen thưởng kịp thời đại biểu HĐND, Tổ đại biểu HĐND hoàn thành tốt nhiệm vụ. (4) Đối với đại biểu HĐND: Đại biểu HĐND phải xác định rõ vai trò và trách nhiệm; trau dồi kỹ năng hoạt động đại biểu, chủ động nghiên cứu tài liệu, nắm chắc tình hình thực tiễn, ý kiến, kiến nghị của cử tri để tham gia kiến nghị, góp ý nội dung của các nghị quyết, nội dung giám sát; thực hiện tốt quyền phát biểu, chất vấn, tham gia tích cực các hoạt động giám sát. Đề xuất cơ quan, đơn vị sắp xếp cho cá nhân đại biểu HĐND thuộc cơ quan, đơn vị mình dành thời gian hoạt động HĐND đảm bảo theo quy định.
Trong quá trình tìm hiểu, với quan điểm cá nhân có thể chưa được đề cập toàn diện, sâu sát, rất mong nhận được phản hồi góp ý để các giải pháp nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của HĐND ngày càng hoàn thiện, sớm áp dụng triển khai, đảm bảo vai trò của HĐND là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương./.
Thanh Việt
(Văn phòng Đoàn ĐBQH và HĐND tỉnh Đắk Lắk)