Tiếp tục Chương trình giám sát, sáng ngày 29/3/2024, Đoàn Giám sát số 54 của HĐND tỉnh do ông Trần Phú Hùng, Tỉnh ủy viên, Phó Chủ tịch HĐND tỉnh làm Trưởng Đoàn đã tiến hành giám sát việc thực hiện Nghị quyết số 24/NQ-HĐND ngày 13/7/2017 của HĐND tỉnh về phát triển cà phê bền vững của tỉnh đến năm 2020 và định hướng đến năm 2030 đối với UBND tỉnh và Sở Ngông nghiệp và Phát triển Nông thôn, tham gia buổi làm việc còn có các đồng chí thành viên Đoàn Giám sát số 54.
|
Quang cảnh buổi làm việc của Đoàn Giám sát số 54 của HĐND tỉnh
|
Theo báo cáo của UBND tỉnh, thực hiện Nghị quyết của HĐND tỉnh, UBND tỉnh đã phê duyệt Đề án Phát triển cà phê bền vững của tỉnh Đắk Lắk đến năm 2020 và định hướng đến năm 2030 tại Quyết định số 2811/QĐ-UBND ngày 10/10/2017, với tổng kinh phí thực hiện 2.939 tỷ đồng, gồm: ngân sách tỉnh 15 tỷ đồng, vốn của doanh nghiệp và nông dân 2.653 tỷ đồng, vốn dự án VnSAT 271 tỷ đồng (Ngân hàng thế giới: 163 tỷ đồng, Chính phủ: 52 tỷ đồng, doanh nghiệp và nông dân: 56 tỷ đồng). UBND tỉnh ban hành Kế hoạch triển khai thực hiện Đề án Phát triển cà phê bền vững của tỉnh Đắk Lắk đến năm 2020 và định hướng đến năm 2030 tại Quyết định 3540/QĐ-UBND ngày 25/12/2017.
Sau 07 năm thực hiện Nghị quyết 24 của HĐND tỉnh (2017 – 2023), nhiều nội dung đã đạt mục tiêu đề ra, cụ thể: năm 2023, sản lượng đạt 513.243 tấn, năng suất bình quân đạt 26,72 tạ/ha, tăng 14% so với mục tiêu Nghị quyết.
Diện tích cà phê tái canh được triển khai thực hiện theo kế hoạch; tổng diện tích cà phê có chứng nhận đạt trên 30.000 ha; sản lượng cà phê đạt trên 535.000 tấn, có khoảng 90% sản lượng cà phê được thu hái, phơi sấy và bảo quản theo đúng quy trình kỹ thuật; 100% các cơ sở chế biến cà phê nhân xuất khẩu tuân thủ đúng quy chuẩn kỹ thuật, cà phê đạt điều kiện đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm.
Trong giai đoạn 2018 – 2023, cà phê chế biến sâu được áp dụng công nghệ và quy trình quản lý tiên tiến, trang thiết bị máy móc của các doanh nghiệp hiện đại, sản lượng cà phê chế biến sâu đạt 249.900 tấn, bình quân hàng năm đạt khoảng 41.650 tấn, đạt tỷ lệ cà phê chế biến sâu 8,11 % so với sản lượng cà phê của bình quân các niên vụ, cơ bản đạt mục tiêu của Nghị quyết (từ 8 – 10% sản lượng của niên vụ ).
Việc triển khai các mô hình sản xuất cà phê theo hướng hữu cơ đã được triển khai tốt, hiện nay trên địa bàn tỉnh triển khai được 10 mô hình với diện tích khoảng 10 ha, đạt 100% so với mục tiêu Đề án.
Các doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh cà phê, nhất là các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tích cực tham gia các chương trình sản xuất cà phê bền vững thông qua việc tổ chức tập huấn, huấn luyện nông dân về sản xuất cà phê 4C, UTZ, RFA...
Công tác xúc tiến thương mại và tìm kiếm thị trường đã được quan tâm chú trọng, đã xây dựng được thương hiệu cà phê Buôn Ma Thuột điểm đến của thế cà phê thế giới gây ấn tượng với bạn bè quốc tế, giúp cho việc quảng bá thương hiệu cà phê Buôn Ma Thuột, cà phê Việt Nam ra thị trường thế giới.
|
Ông Nguyễn Xuân Lợi, Uỷ viên Ban Kinh tế - Ngân sách của HĐND tỉnh, Tổng Giám đốc Công ty Cổ phần Đầu tư và Phát triển An Thái, thành viên Đoàn giám sát phát biểu ý kiến
|
Tuy nhiên, bên cạnh những mặt đạt được, vẫn còn một số chỉ tiêu chưa đạt so với yêu cầu kế hoạch đề ra, như: Việc giảm diện tích cà phê, duy trì ổn định 180.000 ha là không thể thực hiện. Do cây cà phê là nguồn thu nhập chính của các hộ dân, một số hộ dân ngại mất nguồn thu nhập, do vậy người dân buộc phải “gắn bó” với vườn cà phê sản xuất kém hiệu quả mà chưa muốn phá bỏ để trồng thay thế sang các loại cây trồng khác, cũng như người dân không nhiệt tình tham gia vào việc chuyển đổi cà phê. Bên cạnh đó, người dân không chuyển đổi diện tích cà phê kém hiệu quả sang các loại cây trồng khác mà vẫn duy trì và trồng xen cây ăn quả như bơ, sầu riêng trong vườn cà phê nhằm tăng thu nhập từ các loại cây trồng xen. Việc áp dụng quy trình sản xuất cà phê có chứng nhận đạt 80% đến năm 2020 không đạt theo mục tiêu đã đề ra, vì hiện nay các Công ty thu mua cà phê có chứng nhận theo các tiêu chuẩn như 4C, UTZ, RFA ... hầu hết đã có vùng nguyên liệu và thị trường ổn định. Theo mục tiêu của Nghị quyết, kim ngạch xuất khẩu cà phê đến năm 2020 bình quân đạt 600 triệu USD/năm – 650 triệu USD/năm. Với mục tiêu trên không hoàn thành do tác động của nhu cầu thị trường thế giới và giá cả cà phê sụt giảm liên tục có thời điểm dao động khoảng 30.000 đồng/kg. Các công trình thủy lợi tưới tiêu hiện nay chỉ đáp ứng được khoảng 30% diện tích cà phê, diện tích cà phê còn lại là được tưới từ nguồn sông, suối, ao hồ, giếng. Việc đảm bảo 75-80% diện tích cà phê chủ động được nước tưới theo mục tiêu Nghị quyết khó hoàn thành. Công tác quản lý khai thác công trình thủy lợi gặp nhiều khó khăn do đặc thù vùng Tây Nguyên và nhất là các công trình do địa phương quản lý, chưa chủ động tham mưu thực hiện bàn giao đồng bộ các công trình thủy lợi do doanh nghiệp quản lý. Vốn đầu tư ứng dụng các thiết bị công nghệ tưới, vượt khả năng của đại bộ phận, tổ chức cá nhân có nhu cầu đầu tư....
|
Đại diện Sở Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn
báo cáo giải trình theo đề nghị của Đoàn Giám sát số 54.
|
Tại buổi làm việc, các đại biểu cho rằng, việc triển khai thực hiện Nghị quyết 24 còn nhiều bất cập, vướng mắc, nhất là về tiếp cận nguồn vốn vay tái canh cà phê; chưa có cơ chế phối hợp giữa các doanh nghiệp sản xuất cà phê với địa phương; người dân còn tự phát trồng xen canh với tỷ lệ cao nhưng chưa được quản lý, tư vấn chặt chẽ. Hình thức tổ chức sản xuất cà phê chủ yếu là sản xuất cá thể, quy mô nhỏ lẻ, manh mún. Trong quá trình thực hiện nhiệm vụ, sự phối hợp giữa các sở, ngành, địa phương chưa được thường xuyên; công tác quản lý về vùng trồng chưa được thực hiện chặt chẽ dẫn đến nhiều diện tích cà phê ở các địa phương bị người dân phá bỏ; cần rà soát lại diện tích cà phê trồng thuần và trồng xen để có chính sách phù hợp…Do đó, cần thiết xây dựng một nghị quyết mới để phù hợp với thực tế của địa phương nhằm có những cơ chế giám sát chặt chẽ đối với việc phát triển cây cà phê bền vững trên địa bàn tỉnh trong thời gian tới nhằm giữ vững được vị thế là thủ phủ cà phê.
|
Ông Nguyễn Thiên Văn, Phó Chủ tịch UBND tỉnh phát biểu tại buổi giám sát
|
Tại buổi giám sát, đồng chí Nguyễn Thiên Văn, Phó Chủ tịch UBND tỉnh cho rằng, phát triển cà phê bền vững có vai trò đặc biệt quan trọng đối với phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh, do vậy, cần phải rà soát lại các mục tiêu đề ra trong Nghị Quyết 24 để thấy rõ hơn kết quả, khó khăn, vướng mắc trong quá trình thực hiện. Đồng thời, yêu cầu Sở Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn và các địa phương liên quan tiếp tục rà soát lại các nội dung thực hiện để hoàn thiện báo cáo gửi về Đoàn Giám sát 54 của HĐND tỉnh.
Kết luận cuộc họp, Trần Phú Hùng, Tỉnh ủy viên, Phó Chủ tịch HĐND tỉnh Trưởng Đoàn giám sát đánh giá cao những nỗ lực của các sở, ngành và địa phương liên quan trong việc chủ động triển khai thực hiện Nghị quyết 24. Tuy nhiên, vẫn còn một số tồn tại, hạn chế, nhất là một số địa phương chưa quan tâm đến việc triển khai, thực hiện Nghị quyết 24 cũng như Đề án và kế hoạch của UBND tỉnh về phát triển cà phê bền vững đến các doanh nghiệp, đến nay có doanh nghiệp chưa triển khai được các nội dung của Nghị quyết 24; một số doanh nghiệp mới triển khai được một phần của Đề án; hầu hết các chính sách của Đề án vẫn chưa tổ chức thực hiện đảm bảo theo kế hoạch. Công tác quản lý về vùng trồng chưa được thực hiện chặt chẽ dẫn đến nhiều diện tích cà phê ở các địa phương bị người dân phá bỏ.
|
Ông Trần Phú Hùng, Tỉnh ủy viên, Phó Chủ tịch Hội đồng nhân dân tỉnh,
Trưởng Đoàn Giám sát số 54 của HĐND tỉnh phát biểu kết luận
|
Trong thời gian tới, đề nghị UBND tỉnh, Sở Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn tiếp tục nghiên cứu, tham mưu triển khai thực hiện có hiệu quả Kế hoạch tái canh cây cà phê giai đoạn 2021-2025 đảm bảo theo kế hoạch đề ra. Tổ chức đánh giá, tổng kết việc triển khai thực hiện Nghị quyết 24 của HĐND tỉnh, xem xét đề xuất HĐND tỉnh chính sách phù hợp với tình hình thực tế hiện nay. Thống kê lại tổng diện tích cà phê trên địa bàn tỉnh theo hướng: Thống kê tổng diện tịch cà phê chuyên canh; tổng diện tích cà phê xen canh, trong đó có bao nhiêu diện tích cà phê và có bao nhiêu diện tích các loại cây trồng khác để có số liệu chính xác nhất về diện tích cà phê hiện nay để có những chính sách phù hợp. Thống kê cụ thể sản lượng cà phê của một số doanh nghiệp có liên kết với hộ kinh doanh trên địa bàn tỉnh.
Tiếp tục Tăng cường công tác phối hợp chặt chẽ giữa UBND tỉnh, UBND cấp huyện với các công ty cà phê trên địa bàn tỉnh nhằm có sự phối hợp chặt chẽ trong triển khai các chính sách về nông nghiệp cũng như quản lý đất đai trên địa bàn. Tang cường công tác phối hợp với các địa phương để tuyên truyền, tập huấn vận động Nhân dân thực hiện tuân thủ quy trình tái canh cà phê; chuyển đổi cơ cấu cây trồng đối với những diện tích cà phê không đủ nguồn nước tưới, không đủ điều kiện cho cây cà phê phát triển sang cây trồng khác hiệu quả hơn, nhằm triển khai kế hoạch tái canh cà phê đảm bảo hiệu quả; nâng cao nhận thức của người nông dân về sản xuất cà phê bền vững, gắn lợi ích kinh tế xã hội môi trường; hướng dẫn, hỗ trợ và khuyến khích nông dân tập trung thâm canh cà phê theo hướng thực hành nông nghiệp tốt (GAP), sản xuất cà phê có chứng nhận, mã số vùng trồng để nâng cao chất lượng sản phẩm cà phê. Tiếp tục đẩy mạnh triển khai chính sách tín dụng phục vụ phát triển nông nghiệp, nông thôn theo Nghị định số 55 ngày 09/6/2015 của Chính phủ và Nghị định số 116 ngày 07/9/2018 của Chính phủ, tạo điều kiện cho hợp tác xã, doanh nghiệp, hộ gia đình tiếp cận vốn tín dụng để đầu tư tái canh cà phê, đầu tư máy móc thiết bị chế biến. Tham mưu xây dựng chính sách khuyến khích người trồng cà phê hình thành vùng sản xuất hàng hóa tập trung để thuận lợi cho việc đầu tư hạ tầng, áp dụng khoa học công nghệ; liên doanh, liên kết sản xuất, chế biến, tiêu thụ cà phê; khuyến khích hình thành liên kết sản xuất và tiêu thụ sản phẩm cà phê trên địa bàn tỉnh. Tăng cường công tác quản lý Nhà nước trong kiểm tra, kiểm soát chất lượng giống cà phê. Khuyến khích các doanh nghiệp xây dựng vùng nguyên liệu cho mình, thực hiện cơ chế giá thu mua theo chất lượng và phát triển xây dựng thương hiệu. Nâng cao công tác quản lý khai thác công trình thủy lợi trên địa bàn tỉnh để đáp ứng được nhu cầu nước tưới của các loại cây trồng nói chung, diện tích cà phê nói riêng. Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, tư vấn, hỗ trợ các Hợp tác xã, Tổ hợp tác sản xuất cà phê bền vững, chú trọng vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin vào công tác quản lý sản xuất cà phê bền vững; tổ chức tập huấn, hỗ trợ liên kết phát triển nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao; đào tạo, tập huấn cho đội ngũ cán bộ khuyến công, cán bộ cơ sở về ứng dụng khoa học công nghệ trong sản xuất, chế biến.
Sớm triển khai Quyết định 1392/QĐ-BNN-TT ngày 02/4/2021 của Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn về phê duyệt đề án phát triển cà phê đặc sản Việt Nam giai đoạn 2021 – 2030 và Quyết định 1178/QĐ-BNN-TT ngày 31/3/2022 Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn về phê duyệt đề án tái canh cà phê giai đoạn 2021-2025 để thực hiện có hiệu quả trên địa bàn tỉnh…
Phương An