Đại biểu Quốc hội tỉnh Đắk Lắk phát biểu tại Hội trường về dự án Luật Phòng thủ dân sự
Ngày đăng: 12/11/2022 06:02
Hôm nay: 0
Hôm qua: 0
Trong tuần: 0
Tất cả: 0
Ngày đăng: 12/11/2022 06:02
Tiếp tục Chương trình Kỳ họp thứ 4 - Quốc hội khóa XV, chiều ngày 09/11/2022, Quốc hội thảo luận ở hội trường về dự án Luật Phòng thủ dân sự .
Tại phiên thảo luận, đại biểu Quốc hội Nguyễn Thị Thu Nguyệt - Tỉnh ủy viên, Bí thư Thị ủy Buôn Hồ thuộc Đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh Đắk Lắk đã tham gia phát biểu.
![]() |
Đại biểu Quốc hội Nguyễn Thị Thu Nguyệt phát biểu; Ảnh: https://media.quochoi.vn
|
Đại biểu thống nhất với sự cần thiết mà Chính phủ trình Quốc hội ban hành Luật Phòng thủ dân sự, bởi vai trò vô cùng quan trọng của phòng thủ nhân sự trong phòng thủ chung của đất nước. Về các nội dung cụ thể, Đại biểu có ý kiến như sau:
Thứ nhất, về bố cục dự án luật, Đại biểu cho rằng dự án luật thiết kế nội dung, cơ cấu một số mục, một số chương chưa thật hợp lý, chẳng hạn như: Hoạt động phòng thủ dân sự trong tình trạng khẩn cấp lại được thiết kế một mục riêng biệt ở mục 4, các cấp độ phòng thủ nhân sự cấp 1, cấp 2, cấp 3 thì được thiết kế trong cùng mục 1, trong khi hoạt động này cũng chính là cấp độ 4 trong hoạt động phòng thủ dân sự; hoặc tại Điều 13 quy định về trang bị phòng thủ dân sự trong tình hình bình thường, song trên thực tế, việc trang bị phòng thủ dân sự không chỉ được thực hiện trong khi hoạt động phòng thủ dân sự trong tình trạng bình thường mà có thể được thực hiện trong các tình trạng khác, như tình trạng khi xảy ra thảm họa, sự cố, tình trạng khẩn cấp, ... Do vậy, đề nghị Ban soạn thảo nghiên cứu các quy định có tính chất tương đồng, tính khái quát chung nhất, nên thiết kế cùng chung vào mục, chương hoặc một mục, đưa vào những quy định, những vấn đề chung nhất. Đồng thời, tiến hành chỉnh lý bố cục của luật này cho phù hợp với liều lượng từng nội dung, từng điều mục để thuận lợi quá trình tiếp cận luật.
Thứ hai, về giải thích từ ngữ quy định tại Điều 2. Dự án luật đã giải thích rất nhiều cụm từ liên quan đến hoạt động phòng thủ dân sự. Tuy nhiên, dự án luật chưa đề cập đến cụm từ “tình trạng khẩn cấp trong hoạt động phòng thủ dân sự”. Tình trạng khẩn cấp trong hoạt động phòng thủ dân sự được hiểu như thế nào cho đầy đủ, bao hàm các nội dung mà luật cần điều chỉnh. Trong khi nghiên cứu mục 3 Chương II quy định về hoạt động trong tình trạng khẩn cấp đã cho thấy luật này chỉ thể hiện được các biện pháp mang tính chất dân sự trong tình trạng khẩn cấp mà không đề cập đến các biện pháp về quốc phòng, an ninh. Như vậy, nội hàm của khái niệm tình trạng khẩn cấp trong phòng thủ dân sự có mâu thuẫn với quy định tình trạng khẩn cấp theo Điều 1 Pháp lệnh tình trạng khẩn cấp cũng như khái niệm phòng thủ dân sự được quy định tại Điều 2 của luật này hay không? Đề nghị Ban soạn thảo cần làm rõ, bổ sung, giải thích từ ngữ tại điều này cho đảm bảo tính thống nhất trong hệ thống pháp luật và tính khả thi sau khi ban hành.
Thứ ba, trong dự án luật cũng còn nhiều quy định khó hiểu, khó thực hiện, có những hoạt động trong phòng thủ dân sự chưa được điều chỉnh bởi các quy định cụ thể, đề nghị Ban soạn thảo cần nghiên cứu bổ sung cụ thể như sau:
- Về hợp tác quốc tế trong phòng thủ dân sự quy định tại khoản 2 Điều 8. Thực tế thời gian qua cho thấy các thảm họa do thiên nhiên gây ra phần lớn là do sự biến đổi khí hậu, việc hủy hoại môi trường sinh thái cho con người gây ra, như phá rừng đã tàn phá các cấu trúc tự nhiên, sông suối, việc xả các loại nước thải, khí thải công nghiệp chưa xử lý ra môi trường, việc sử dụng vũ khí công nghệ cao có sức hủy diệt lớn trong chiến tranh, ... Do vậy, đề nghị Ban soạn thảo bổ sung thêm quy định hoạt động hợp tác đa phương trong tổ chức quốc tế, điều này sẽ góp phần ngăn chặn, giảm bớt nguy cơ sự cố, thảm họa do con người, thiên nhiên gây ra, không chỉ ở một quốc gia mà cả trên toàn cầu.
- Về hệ thống công trình phòng thủ dân sự, quy định tại khoản 2 Điều 12, Đại biểu cho rằng việc quy định các công trình thuộc hệ thống công trình phòng thủ dân sự trong dự án luật chưa đầy đủ, chưa bao quát hết các công trình theo đúng nội hàm của khái niệm phòng thủ dân sự, cũng như thực tế khi xảy ra các sự cố, thảm họa mà các công trình này có thể phục vụ cho phòng thủ dân sự, như các công trình hạ tầng giao thông, cầu giao thông, đường, bến phà và những công trình lưỡng dụng khác. Việc đề cập chi tiết và giới hạn các công trình phòng thủ dân sự như trong dự án luật vừa thiếu, vừa khó khăn khi tổ chức thực hiện, do vậy, đề nghị Ban soạn thảo nên khái quát chung nhất các dạng công trình phòng thủ dân sự theo lĩnh vực hoặc theo thảm họa, sự cố về thiên nhiên hoặc do con người gây ra.
- Về thẩm quyền ban bố, công bố, bãi bỏ cấp độ phòng thủ dân sự, được quy định tại Điều 22. Qua nghiên cứu cho thấy, dự án luật quy định cụ thể, rõ ràng, thẩm quyền bãi bỏ phòng thủ nhân sự cấp độ 1, 2, 3 thể hiện tại khoản 1, 2, 3 của điều luật này. Tuy nhiên, khoản 4 dự án chỉ quy định thẩm quyền ban bố tình trạng khẩn cấp các địa phương thực hiện các biện pháp phòng thủ nhân sự cấp độ 4 mà không quy định thẩm quyền bãi bỏ khi chấm dứt tình trạng khẩn cấp. Ngoài ra, tên của điều luật này quy định cụ thể là thẩm quyền ban bố, công bố, bãi bỏ cấp độ phòng thủ dân sự, song dự án luật không quy định rõ vấn đề công bố các cấp độ như thế nào, về thẩm quyền công bố, phương thức công bố, đối tượng công bố như thế nào. Do vậy đề nghị Ban soạn thảo cần bổ sung quy định cụ thể để dễ dàng thực hiện trên thực tế.
- Về phòng thủ dân sự được quy định tại Điều 44. Đại biểu thống nhất với việc quy định xây dựng phòng thủ dân sự, nhằm tạo tính chủ động, kịp thời trong việc ứng phó, khắc phục những hậu quả của chiến tranh, thảm họa, sự cố, dịch bệnh. Tuy nhiên, việc quy định phòng thủ dân sự tại khoản 1 điều này, đó là nguồn quỹ phòng thủ dân sự được hình thành trên cơ sở điều tiết từ các nguồn quỹ ngoài ngân sách có liên quan đến phòng thủ dân sự chưa thật rõ ràng, chưa cụ thể. Việc điều tiết đó được thực hiện như thế nào, trong khi điều luật không giải thích, không quy định thêm nội dung nào khác. Điều này chắc chắn khi thực hiện sẽ gặp khó khăn. Mặt khác, chúng ta cũng thấy trên thực tế hiện nay có rất nhiều loại quỹ do các tổ chức, đơn vị thực hiện với nhiều đối tượng, nhiều mức khác nhau được xem là những hoạt động phục vụ cho phòng thủ dân sự. Do vậy, đề nghị cần phải thống nhất nguồn quỹ phòng thủ dân sự quy về một mối trong công tác vận động xây dựng nguồn quỹ cũng như công tác quản lý, tránh việc thu, vận động nguồn quỹ chồng chéo, trùng lắp ở nhiều tổ chức, nhiều cơ quan, đơn vị với nhiều mức khác nhau, gây khó khăn cho người tham gia ủng hộ và thực hiện nguồn quỹ. Cũng tại điều này, cần bổ sung nội dung giao cho Chính phủ quy định chi tiết về nguồn quỹ này gồm mức thu vận động, công tác quản lý, mức chi, nội dung chi./.
Kim Oanh