Đại biểu Quốc hội Lưu Văn Đức phát biểu tại Hội trường về dự án Luật Phòng, chống bạo lực gia đình (sửa đổi)
Ngày đăng: 16/06/2022 10:41
Tiếp tục Chương trình Kỳ họp thứ Ba - Quốc hội khóa XV, chiều ngày 14 tháng 6 năm 2022: Quốc hội thảo luận tại Hội trường về dự thảo Luật Phòng, chống bạo lực gia đình (sửa đổi). Tại phiên thảo luận, đại biểu Quốc hội Lưu Văn Đức, Ủy viên Thường trực Hội đồng Dân tộc của Quốc hội (thuộc Đoàn ĐBQH tỉnh Đắk Lắk) đã tham gia thảo luận.
|
Đại biểu Quốc hội Lưu Văn Đức phát biểu tại phiên họp (Ảnh:https://media.quochoi.vn)
|
Theo đại biểu, trong những năm qua Đảng và Nhà nước ta đã dành nhiều sự quan tâm tới việc phòng, chống bạo lực gia đình, đã ban hành nhiều đạo luật trực tiếp và gián tiếp như Hiến pháp, Luật Hôn nhân và gia đình, Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em, Bộ luật Dân sự, đặc biệt là Luật Phòng, chống bạo lực gia đình năm 2007. Những văn bản này đã tạo ra nhiều chuyển biến tích cực trong đời sống xã hội, trong lĩnh vực phòng, chống bạo lực gia đình. Nhưng đánh giá một cách khách quan thì các quy phạm pháp luật này chưa thực sự đi vào cuộc sống. Sự quan tâm và hiểu biết về lĩnh vực này chưa đi vào chiều sâu; tình trạng bạo lực gia đình chưa có nhiều thay đổi. Hơn thế nữa, nó dần trở thành một hiện tượng đáng báo động của xã hội, là một vấn nạn nhức nhối, nan giải ở Việt Nam.
Đại biểu nhất trí việc sửa đổi toàn diện Luật Phòng, chống bạo lực gia đình và thống nhất với nhiều nội dung nêu trong Báo cáo thẩm tra của Ủy ban Xã hội. Để tiếp tục hoàn thiện dự án luật, đại biểu tham gia một số ý kiến như sau:
Thứ nhất, về số liệu thực trạng về tình hình bạo lực gia đình tại Việt Nam. Theo hồ sơ dự án luật có 03 nguồn thông tin khác nhau về thực trạng ở nước ta: Nguồn tổng hợp từ báo cáo của địa phương; nguồn thống kê của tòa án về các vụ ly hôn và nguồn từ kết quả điều tra quốc gia về bạo lực gia đình. Tuy nhiên, số liệu của 3 nguồn này rất khác nhau, do đó đề nghị cơ quan soạn thảo cần báo cáo rõ hơn về nội dung này.
Thứ hai, về chính sách của nhà nước về phòng, chống bạo lực gia đình quy định tại Điều 7 của dự thảo. Yếu tố phong tục, tập quán, truyền thống văn hóa có ảnh hưởng lớn đến phòng, chống bạo lực gia đình. Theo báo cáo, các vấn đề giới trong vùng dân tộc thiểu số ở Việt Nam do cơ quan Liên hợp quốc về bình đẳng giới và trao quyền cho phụ nữ UN Woman phối hợp với Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, Ủy ban Dân tộc thực hiện công bố tháng 8/2021 thì tỷ lệ phụ nữ dân tộc thiểu số bị bạo lực gia đình dưới dạng kiểm soát hành vi và bạo lực kinh tế là 33,8% và 24,1%, cao hơn so với tỷ lệ chung của cả nước là 27,3 và 20,6%. Tuy nhiên, tại Điều 7 dự thảo luật lại chưa có quy định riêng cho đồng bào dân tộc thiểu số, do đó đề nghị Ban soạn thảo cần nghiên cứu bổ sung quy định ưu tiên của nhà nước trong phòng ngừa, giải quyết bạo lực gia đình ở khu vực vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội ở từng vùng, miền.
Thứ ba, về thông tin, truyền thông, giáo dục về phòng, chống bạo lực gia đình quy định tại Điều 14 đến Điều 16. Công tác thông tin, truyền thông, tuyên truyền về phòng, chống bạo lực gia đình có vai trò rất quan trọng, tuy nhiên các quy định của dự thảo luật còn chưa bao phủ hết. Do đó, đề nghị cần phải mở rộng phạm vi đối tượng tham gia gồm những cơ quan, tổ chức có trách nhiệm trong công tác thông tin, tuyên truyền, giáo dục, phòng, chống bạo lực gia đình. Đồng thời, bổ sung đối tượng có nguy cơ như người già, phụ nữ, trẻ em, đồng bào dân tộc thiểu số trong đối tượng được thông tin truyền thông. Đồng thời cũng có ý kiến đề nghị đẩy mạnh công tác tuyên truyền nâng cao nhận thức về phòng, chống bạo lực gia đình tại các vùng nông thôn, miền núi, vùng đặc biệt khó khăn.
Thứ tư, về tư vấn về phòng chống bạo lực gia đình ở cộng đồng quy định tại Điều 18. Khoản 1 Điều 18 dự thảo luật quy định phạm vi của tư vấn về phòng, chống bạo lực gia đình ở cộng đồng do địa chỉ tin cậy ở cộng đồng hoặc tổ tư vấn gia đình và cộng đồng, dân cư thực hiện, gồm hướng dẫn bồi dưỡng kiến thức, kỹ năng về phòng, chống bạo lực gia đình cho người thực hiện tư vấn phòng, chống bạo lực gia đình ở cộng đồng. Đại biểu đề nghị xem xét mở rộng tư vấn bạo lực gia đình bao gồm cả tư vấn về kỹ năng ứng xử trong gia đình, xử lý tình huống mâu thuẫn tranh chấp trong gia đình, thoát khỏi tình trạng bạo lực của gia đình. Việc tổ chức đời sống gia đình, xây dựng gia đình hạnh phúc, tư vấn về tâm lý trị liệu, tư vấn pháp lý để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người bị bạo lực cũng như là các biện pháp phòng ngừa bạo lực gia đình.
Thứ năm, về các loại hình hòa giải quy định tại Điều 22 dự thảo luật. Đây là những quy định mới khác so với luật hiện hành cũng như Luật Hòa giải ở cơ sở. Nhưng trong thực tế phòng, chống bạo lực gia đình thấy rằng cần phải có các loại hòa giải như dự thảo để hạn chế bạo lực gia đình. Mặc dù dư luận xã hội cũng như ý kiến của các tổ chức quốc tế không ủng hộ các quy định về hòa giải. Họ cho rằng các vụ việc bạo lực gia đình ở Việt Nam được xử lý chủ yếu bằng hòa giải và theo kiểu xí xóa “đóng cửa bảo nhau”. Vì vậy, trên 90% người bị bạo lực gia đình thời gian qua không muốn tìm đến sự trợ giúp của các cơ quan, tổ chức, cá nhân và cứ âm thầm chịu đựng theo báo cáo điều tra khảo sát, bạo lực gia đình năm 2019 của Tổng cục Thống kê. Nhưng thực tế đời sống và truyền thống văn hóa, phong tục Việt Nam thì hòa giải tuy không thay thế các biện pháp xử phạt nhưng vẫn là một biện pháp góp phần giảm nhẹ hậu quả các vụ việc bạo lực gia đình. Các vụ việc bạo lực gia đình gây hậu quả nghiêm trọng thời gian qua đều thấy thiếu vắng các biện pháp hòa giải vụ việc sau khi đã xử lý hành chính hoặc là hình sự.
Thứ sáu, là về biện pháp cấm tiếp xúc quy định từ Điều 33 đến Điều 44. Theo Báo cáo tổng kết thi hành luật thì các biện pháp cấm tiếp xúc chưa được áp dụng nhiều. Theo báo cáo tổng kết thi hành luật tại trang 10, số lần áp dụng biện pháp cấm tiếp xúc năm 2019 là 211, năm 2020 là 193 và năm 2021 là 82, chưa thực sự bảo vệ nạn nhân bạo lực gia đình. Nhất trí với ý kiến thẩm tra về việc sửa đổi quy định về biện pháp cấm tiếp xúc, cần tính đến khả năng áp dụng cho một số nhóm đối tượng đặc thù như trẻ em, người cao tuổi, người khuyết tật. Đối với người bị bạo lực gia đình là trẻ em, người mất năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn trong nhận thức làm chủ hành vi và người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự thì khi ra quyết định cấm tiếp xúc cần có một quy trình đặc biệt và nghiên cứu quy định theo hướng có thể không cần sự đồng ý của đương sự, khi cơ quan, tổ chức có thẩm quyền có yêu cầu ra quyết định cấm tiếp xúc.
Cuối cùng, đại biểu đề nghị cơ quan soạn thảo rà soát để tương thích đồng bộ giữa luật này với các luật hiện hành như: Bộ luật Hình sự, Bộ luật Dân sự, Luật Hôn nhân và gia đình, Luật Trẻ em./.
Y Thưa